TIN MỚI
THÔNG TIN NGÀNH IN
Ngành in Việt Nam: Đầu tư hay thu hẹp?
Ngành in Việt Nam: Đầu tư hay thu hẹp sản xuất? Đứng trước sự biến động phi mã của chi phí đầu vào và lãi suất ngân hàng, các doanh nghiệp in Việt Nam đang chịu áp lực lớn của thị trường. Đầu tư, dừng lại hay thu hẹp quy mô sản xuất đang là bài toán trăn trở đối với các doanh nghiệp in hiện nay, công nghệ lạc hậu.

Sự tăng trưởng quá nhanh về số lượng doanh nghiệp in thời gian qua cũng tạo nên sức ép trong ngành, cung tăng nhanh hơn cầu dẫn đến sự cạnh tranh giữa nội bộ các doanh nghiệp in trong nước, sự cạnh tranh với các doanh nghiệp in có vốn đầu tư nước ngoài. Sản xuất của các doanh nghiệp in đang gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kinh doanh thấp, đời sống lao động ngành in giảm sút. Một số khách hàng được lợi từ sự mất cân đối này, đã chiếm dụng vốn hoặc ép giá công in. Qua tìm hiểu tại Hội in Hà Nội, giá công in không tăng, có khách hàng là con nợ khó đòi của nhiều doanh nghiệp in, có việc mà thêm mắc nợ thì doanh nghiệp khó trụ lại trong tình hình lạm phát hiện nay.
Ngành in Việt Nam: Đầu tư hay thu hẹp sản xuất?
Tôi đọc và tâm đắc bài viết “thiêu vốn mà chẳng giám vay” của nhóm tác giả Trần Khâm, Quốc Thắng, Băng Châu, Kiều Hương, Ngọc Quân đăng trên báo Nhân dân ngày 26 tháng 6 năm 2008. Những giải pháp mà các doanh nghiệp kiến nghị là phù hợp mà cần được cấp có thẩm quyền xem xét. Cơ thể mạnh khi các tế bào mạnh và dồi dào sức sống mà mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế.
Trở lại nội dung cần trao đổi, tiếp tục đầu tư hay thu hẹp quy mô của các doanh nghiệp in hiện nay? Bài viết chỉ mang tính gợi mở nhằm giúp cho các đồng nghiệp nghiên cứu thêm, tiếp tục tham gia diễn đàn vì sự phát triển chung của ngành và từng doanh nghiệp.
Ngành in Việt Nam trong tiến trình hội nhập, công nghệ in phải đạt trình độ quốc tế, đội ngũ lao động phải được đào tạo chuyên nghiệp. Đó là mục tiêu và hướng đầu tư ngành in cần duy trì và không ngắt đoạn. Tại hội chợ DRUPA 2008, hội chợ ngành in lớn nhất hành tinh diễn ra tại CHLB Đức, hơn 100 doanh nghiệp in Việt nam tham gia, thể hiện sự quan tâm của các doanh nghiệp in nhằm tìm hiểu và đón bắt công nghệ in tiên tiến trên thế giới. Xu hướng chất lượng và tốc độ bao trùm hội chợ, công nghệ in đạt trình độ tự động hoá cao. Do vậy, muốn đáp ứng thị trường in cao cấp, với số lượng lớn, thời gian nhanh cần có bài toán đầu tư dài hạn. Nếu dừng lại ở công nghệ cũ, năng suất thấp, chất lượng không đáp ứng thì thị trường in cao cấp tại Việt nam là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhu cầu đầu tư thì cần, dừng đầu tư thì doanh nghiệp tụt hậu, nhưng nếu dùng nguồn vốn vay ngân hàng hiện nay thì phương án thu hồi vốn gặp khó khăn. Những doanh nghiệp có vốn tự có đủ nhu cầu đầu tư thì căn cứ thị trường nên duy trì tiến độ đầu tư cùng với việc nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp in quy mô vừa và nhỏ cần xem xét lại thị trường, rà xét hạn mục đầu tư, nên đầu tư theo hướng chuyên môn hoá. Trong lúc khó khăn về vốn, lãi suất ngân hàng trên 20% thì đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp sẽ khó khăn và khó thu hồi vốn. Bài toán các doanh nghiệp đang áp dụng là co cụm, rà xét chi phí, tăng cường đào tạo nội bộ, giữ vững thị trường truyền thống nhằm giảm bớt sức ép trong cán cân thanh toán. Tăng cường liên kết trong Hiệp hội in, giảm cạnh tranh bằng phá giá công in, giảm nợ khó đòi. Khắc phục bài toán đầu tư giai đoạn này, liên doanh liên kết và chuyên môn hoá là hướng nhằm tháo gỡ khó khăn cho từng doanh nghiệp và khai thác triệt để lợi thế của mỗi doanh nghiệp.
Bài toán đầu tư và hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp in lúc này cần có các giải pháp vĩ mô, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp in ổn định sản xuất. Giải pháp tháo gỡ khó khăn về vốn bằng cách miễn giảm thuế giấy nhập khẩu để các doanh nghiệp in giảm chi phí đầu vào, chủ động vật tư với các đơn hàng dài hạn. Nhà nước tiếp tục có chính sách cho vay ưu đãi với các dự án đầu tư chiều sâu, in gia công xuất khẩu.
TS Bùi Doãn Nề
Ngành in Việt Nam: Đầu tư hay thu hẹp sản xuất?
Tôi đọc và tâm đắc bài viết “thiêu vốn mà chẳng giám vay” của nhóm tác giả Trần Khâm, Quốc Thắng, Băng Châu, Kiều Hương, Ngọc Quân đăng trên báo Nhân dân ngày 26 tháng 6 năm 2008. Những giải pháp mà các doanh nghiệp kiến nghị là phù hợp mà cần được cấp có thẩm quyền xem xét. Cơ thể mạnh khi các tế bào mạnh và dồi dào sức sống mà mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế.
Trở lại nội dung cần trao đổi, tiếp tục đầu tư hay thu hẹp quy mô của các doanh nghiệp in hiện nay? Bài viết chỉ mang tính gợi mở nhằm giúp cho các đồng nghiệp nghiên cứu thêm, tiếp tục tham gia diễn đàn vì sự phát triển chung của ngành và từng doanh nghiệp.
Ngành in Việt Nam trong tiến trình hội nhập, công nghệ in phải đạt trình độ quốc tế, đội ngũ lao động phải được đào tạo chuyên nghiệp. Đó là mục tiêu và hướng đầu tư ngành in cần duy trì và không ngắt đoạn. Tại hội chợ DRUPA 2008, hội chợ ngành in lớn nhất hành tinh diễn ra tại CHLB Đức, hơn 100 doanh nghiệp in Việt nam tham gia, thể hiện sự quan tâm của các doanh nghiệp in nhằm tìm hiểu và đón bắt công nghệ in tiên tiến trên thế giới. Xu hướng chất lượng và tốc độ bao trùm hội chợ, công nghệ in đạt trình độ tự động hoá cao. Do vậy, muốn đáp ứng thị trường in cao cấp, với số lượng lớn, thời gian nhanh cần có bài toán đầu tư dài hạn. Nếu dừng lại ở công nghệ cũ, năng suất thấp, chất lượng không đáp ứng thì thị trường in cao cấp tại Việt nam là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhu cầu đầu tư thì cần, dừng đầu tư thì doanh nghiệp tụt hậu, nhưng nếu dùng nguồn vốn vay ngân hàng hiện nay thì phương án thu hồi vốn gặp khó khăn. Những doanh nghiệp có vốn tự có đủ nhu cầu đầu tư thì căn cứ thị trường nên duy trì tiến độ đầu tư cùng với việc nâng cao chất lượng quản lý doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp in quy mô vừa và nhỏ cần xem xét lại thị trường, rà xét hạn mục đầu tư, nên đầu tư theo hướng chuyên môn hoá. Trong lúc khó khăn về vốn, lãi suất ngân hàng trên 20% thì đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp sẽ khó khăn và khó thu hồi vốn. Bài toán các doanh nghiệp đang áp dụng là co cụm, rà xét chi phí, tăng cường đào tạo nội bộ, giữ vững thị trường truyền thống nhằm giảm bớt sức ép trong cán cân thanh toán. Tăng cường liên kết trong Hiệp hội in, giảm cạnh tranh bằng phá giá công in, giảm nợ khó đòi. Khắc phục bài toán đầu tư giai đoạn này, liên doanh liên kết và chuyên môn hoá là hướng nhằm tháo gỡ khó khăn cho từng doanh nghiệp và khai thác triệt để lợi thế của mỗi doanh nghiệp.
Bài toán đầu tư và hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp in lúc này cần có các giải pháp vĩ mô, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp in ổn định sản xuất. Giải pháp tháo gỡ khó khăn về vốn bằng cách miễn giảm thuế giấy nhập khẩu để các doanh nghiệp in giảm chi phí đầu vào, chủ động vật tư với các đơn hàng dài hạn. Nhà nước tiếp tục có chính sách cho vay ưu đãi với các dự án đầu tư chiều sâu, in gia công xuất khẩu.
TS Bùi Doãn Nề
Ngành in đối đầu với thế giới ảo
Thời hoàng kim của ngành công nghiệp in đã không còn nữa khi mà Internet, viễn thông di động và các dịch vụ giá trị gia tăng của nó đã làm thay đổi lối sống.
Nhu cầu sụt thê thảm...

Trong hơn một thập kỷ qua, công nghiệp in luôn là ngành ăn nên làm ra với doanh thu bình quân tăng trên dưới 15%/năm. Cũng vì thế mà ngành in đã một thời có hấp lực to lớn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Theo Hiệp hội In Việt Nam, chỉ trong chưa đầy 10 năm, nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực và các quy định về thành lập nhà in được nới lỏng, số công ty in ở Việt Nam đã tăng tới sáu lần, lên đến hơn 3.000 doanh nghiệp. Trong đó, chỉ riêng Tp.HCM đã có hơn 1.000 đơn vị. Tuy nhiên, thời hoàng kim của ngành này đã không còn nữa và thủ phạm đang đe dọa “nồi cơm” của các doanh nghiệp in ấn chính là Internet, viễn thông di động và các dịch vụ giá trị gia tăng của nó.
Ông Nguyễn Văn Dòng, Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam, cho biết công nghiệp in bắt đầu gặp khó khăn từ năm 2008, thời điểm nền kinh tế Việt Nam rơi vào giai đoạn lạm phát cao, rồi tiếp đến là khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Doanh thu của toàn ngành năm 2008 giảm 5-10% và tiếp tục giảm sút mạnh trong những quí đầu của 2009. Đến 70% số doanh nghiệp in thường xuyên đói việc làm.
Nhưng nếu sự suy thoái của ngành in chỉ xuất phát từ khó khăn chung của nền kinh tế thì không có gì đáng ngại. Đáng lo hơn cả chính là ngành này đang bị sự cạnh tranh quyết liệt từ các dịch vụ trên thế giới ảo, như Internet, báo điện tử và truyền thông không dây. Trong cuộc đối đầu này, ngành công nghiệp in ấn truyền thống xem như đã nắm chắc phần thua trong tay.
Ông Dòng nhìn nhận: “Đọc sách, báo trên mạng, thay cho sách và báo in truyền thống là xu thế không thể đảo ngược trong tương lai”. Xu hướng này đã bắt đầu tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực xuất bản và báo chí truyền thống, qua đó ảnh hưởng dây chuyền đến công nghiệp in từ năm ngoái. “Trong nửa đầu năm ngoái, số lượng in sách, báo và tạp chí của Việt Nam giảm tới 20-30%. Số phát hành của nhiều tờ báo lớn giảm mạnh”, ông cho biết thêm.
Sụt giảm mạnh nhất là các loại sách. Ngoại trừ sách giáo khoa còn giữ được ổn định, sức mua các loại sách đã giảm thê thảm. Đã một thời, có những loại truyện tranh thiếu nhi đạt số lượng in đến hàng trăm ngàn bản, nhưng nay nhà xuất bản chỉ dám in 10.000-20.000. Sách văn học, sách chuyên khảo còn thê thảm hơn.
Ông Dòng nói: “Chỉ in vài trăm đến 1.000 bản, nhưng bán mãi không hết. Giờ đây người đọc có thể tìm thấy tất cả trên mạng. Những loại sách tra cứu truyền thống, chẳng hạn như từ điển, đang ngày một biến mất dần trên danh mục sản phẩm của nhà in”. Ngay cuốn danh bạ điện thoại, một trong những sản phẩm một thời có số lượng in rất lớn, nay cũng đang giảm rất mạnh.
Không chỉ có sách, báo và tạp chí, lĩnh vực in sản phẩm quảng cáo cũng đang bị thế giới ảo lấn lướt.
Điều may mắn cho các doanh nghiệp in truyền thống là vẫn còn một lĩnh vực lớn mà thế giới ảo vẫn chưa thể xâm nhập, đó là in bao bì và nhãn sản phẩm. Trong hơn 700 tỉ trang in tiêu chuẩn mà ngành này sản xuất trong năm ngoái, bao bì và nhãn sản phẩm chiếm tới 65%, sách chỉ còn lại 10% (hai phần ba là sách giáo khoa), báo 15% và 10% còn lại là sản phẩm quảng cáo, lịch.
Theo Hiệp hội In Việt Nam, chỉ trong chưa đầy 10 năm, nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực và các quy định về thành lập nhà in được nới lỏng, số công ty in ở Việt Nam đã tăng tới sáu lần, lên đến hơn 3.000 doanh nghiệp. Trong đó, chỉ riêng Tp.HCM đã có hơn 1.000 đơn vị. Tuy nhiên, thời hoàng kim của ngành này đã không còn nữa và thủ phạm đang đe dọa “nồi cơm” của các doanh nghiệp in ấn chính là Internet, viễn thông di động và các dịch vụ giá trị gia tăng của nó.
Ông Nguyễn Văn Dòng, Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam, cho biết công nghiệp in bắt đầu gặp khó khăn từ năm 2008, thời điểm nền kinh tế Việt Nam rơi vào giai đoạn lạm phát cao, rồi tiếp đến là khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Doanh thu của toàn ngành năm 2008 giảm 5-10% và tiếp tục giảm sút mạnh trong những quí đầu của 2009. Đến 70% số doanh nghiệp in thường xuyên đói việc làm.
Nhưng nếu sự suy thoái của ngành in chỉ xuất phát từ khó khăn chung của nền kinh tế thì không có gì đáng ngại. Đáng lo hơn cả chính là ngành này đang bị sự cạnh tranh quyết liệt từ các dịch vụ trên thế giới ảo, như Internet, báo điện tử và truyền thông không dây. Trong cuộc đối đầu này, ngành công nghiệp in ấn truyền thống xem như đã nắm chắc phần thua trong tay.
Ông Dòng nhìn nhận: “Đọc sách, báo trên mạng, thay cho sách và báo in truyền thống là xu thế không thể đảo ngược trong tương lai”. Xu hướng này đã bắt đầu tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực xuất bản và báo chí truyền thống, qua đó ảnh hưởng dây chuyền đến công nghiệp in từ năm ngoái. “Trong nửa đầu năm ngoái, số lượng in sách, báo và tạp chí của Việt Nam giảm tới 20-30%. Số phát hành của nhiều tờ báo lớn giảm mạnh”, ông cho biết thêm.
Sụt giảm mạnh nhất là các loại sách. Ngoại trừ sách giáo khoa còn giữ được ổn định, sức mua các loại sách đã giảm thê thảm. Đã một thời, có những loại truyện tranh thiếu nhi đạt số lượng in đến hàng trăm ngàn bản, nhưng nay nhà xuất bản chỉ dám in 10.000-20.000. Sách văn học, sách chuyên khảo còn thê thảm hơn.
Ông Dòng nói: “Chỉ in vài trăm đến 1.000 bản, nhưng bán mãi không hết. Giờ đây người đọc có thể tìm thấy tất cả trên mạng. Những loại sách tra cứu truyền thống, chẳng hạn như từ điển, đang ngày một biến mất dần trên danh mục sản phẩm của nhà in”. Ngay cuốn danh bạ điện thoại, một trong những sản phẩm một thời có số lượng in rất lớn, nay cũng đang giảm rất mạnh.
Không chỉ có sách, báo và tạp chí, lĩnh vực in sản phẩm quảng cáo cũng đang bị thế giới ảo lấn lướt.
Điều may mắn cho các doanh nghiệp in truyền thống là vẫn còn một lĩnh vực lớn mà thế giới ảo vẫn chưa thể xâm nhập, đó là in bao bì và nhãn sản phẩm. Trong hơn 700 tỉ trang in tiêu chuẩn mà ngành này sản xuất trong năm ngoái, bao bì và nhãn sản phẩm chiếm tới 65%, sách chỉ còn lại 10% (hai phần ba là sách giáo khoa), báo 15% và 10% còn lại là sản phẩm quảng cáo, lịch.
... trong khi năng lực tăng mạnh
Sự phát triển của Internet, viễn thông không dây và các dịch vụ kèm theo, thay thế dần các sản phẩm in truyền thống là xu thế không thể đảo ngược. Điều này đã được dự báo từ nhiều năm qua. Vì vậy, vấn đề của ngành in không phải là cưỡng lại xu thế chung đó, mà phải tìm cách thích nghi. Chỉ đáng tiếc là Việt Nam đã không sớm nhận ra xu thế này để có thể cập nhật vào quy hoạch phát triển của ngành in, xuất bản, nên đã góp phần để cho tình trạng nhập khẩu ồ ạt thiết bị in sản phẩm truyền thống, dẫn đến tình trạng thừa công suất quá lớn như hiện nay, gây lãng phí.
Cuối năm 2002, quy hoạch phát triển ngành in ấn, xuất bản và phát hành được phê duyệt, với mục tiêu tăng trưởng số lượng sách 15-20%/năm, đạt bình quân sáu cuốn sách/người dân vào năm 2010. Lúc đó, không ít giám đốc nhà in đã cho rằng đây là mục tiêu không tưởng, nhưng nó vẫn được đưa vào triển khai. Đến nay, số sách bình quân trên đầu người của Việt Nam đạt chưa đầy ba cuốn, trong đó hơn hai cuốn là sách giáo khoa. Trong khi đó, năng lực của ngành in lại phát triển mạnh.
Trong giai đoạn 2001-2005, nhiều doanh nghiệp chạy đua nhập máy in với suy nghĩ đơn giản, chỉ cần thu hút được một hoặc hai tờ báo lớn ký hợp đồng là đã sống khỏe. Nhưng điều này chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Sau đó đến lượt nhiều cơ quan báo tự đầu tư xây dựng nhà in. Có những báo không chỉ đầu tư một, mà đến hai, ba nhà in ở các địa bàn khác nhau, để có thể đưa báo đến tay người đọc nhanh nhất. Kết quả là nhiều nhà in không tìm đủ khách hàng, thiết bị ngừng hoạt động hàng loạt.
Số lượng sách, báo, tạp chí... hiện chỉ đủ cho ngành in hoạt động một nửa công suất. Không chỉ có các doanh nghiệp hoạt động in chuyên nghiệp, ngay nhà in của một số báo cũng đang lao đao. Có báo nhập nguyên một dây chuyền in hiện đại, công suất lớn, nhưng mỗi ngày chỉ in được hơn 17.000 bản.
Tương lai của ngành in là ở lĩnh vực bao bì và nhãn sản phẩm. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đang thực hiện cuộc cải tổ để chuyển hướng sản phẩm. Bên cạnh đó, thị trường cho ngành in kể từ cuối năm ngoái đến nay đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, dù còn khiêm tốn. Nhưng về lâu dài, sự phát triển của ngành in vẫn phụ thuộc nhiều vào khả năng phát triển ổn định của các ngành công nghiệp khác, nhất là xuất khẩu.
Nếu các ngành chế biến lương thực, thực phẩm như gạo, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, thủy sản... có thể chuyển đổi thành công sang xuất khẩu sản phẩm chế biến có thể tiêu thụ trực tiếp, thay vì xuất nguyên liệu thô đóng trong bao PP thì ngành in bao bì mới có cơ hội phát triển nhanh.
(St)
Cuối năm 2002, quy hoạch phát triển ngành in ấn, xuất bản và phát hành được phê duyệt, với mục tiêu tăng trưởng số lượng sách 15-20%/năm, đạt bình quân sáu cuốn sách/người dân vào năm 2010. Lúc đó, không ít giám đốc nhà in đã cho rằng đây là mục tiêu không tưởng, nhưng nó vẫn được đưa vào triển khai. Đến nay, số sách bình quân trên đầu người của Việt Nam đạt chưa đầy ba cuốn, trong đó hơn hai cuốn là sách giáo khoa. Trong khi đó, năng lực của ngành in lại phát triển mạnh.
Trong giai đoạn 2001-2005, nhiều doanh nghiệp chạy đua nhập máy in với suy nghĩ đơn giản, chỉ cần thu hút được một hoặc hai tờ báo lớn ký hợp đồng là đã sống khỏe. Nhưng điều này chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Sau đó đến lượt nhiều cơ quan báo tự đầu tư xây dựng nhà in. Có những báo không chỉ đầu tư một, mà đến hai, ba nhà in ở các địa bàn khác nhau, để có thể đưa báo đến tay người đọc nhanh nhất. Kết quả là nhiều nhà in không tìm đủ khách hàng, thiết bị ngừng hoạt động hàng loạt.
Số lượng sách, báo, tạp chí... hiện chỉ đủ cho ngành in hoạt động một nửa công suất. Không chỉ có các doanh nghiệp hoạt động in chuyên nghiệp, ngay nhà in của một số báo cũng đang lao đao. Có báo nhập nguyên một dây chuyền in hiện đại, công suất lớn, nhưng mỗi ngày chỉ in được hơn 17.000 bản.
Tương lai của ngành in là ở lĩnh vực bao bì và nhãn sản phẩm. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đang thực hiện cuộc cải tổ để chuyển hướng sản phẩm. Bên cạnh đó, thị trường cho ngành in kể từ cuối năm ngoái đến nay đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, dù còn khiêm tốn. Nhưng về lâu dài, sự phát triển của ngành in vẫn phụ thuộc nhiều vào khả năng phát triển ổn định của các ngành công nghiệp khác, nhất là xuất khẩu.
Nếu các ngành chế biến lương thực, thực phẩm như gạo, hạt tiêu, hạt điều, cà phê, thủy sản... có thể chuyển đổi thành công sang xuất khẩu sản phẩm chế biến có thể tiêu thụ trực tiếp, thay vì xuất nguyên liệu thô đóng trong bao PP thì ngành in bao bì mới có cơ hội phát triển nhanh.
(St)